GIA CẢNH
Nhà họ Vương gia cảnh thực là
Bình thường nhưng vẫn vọng vang xa
Trời cho chỉ một con trai thứ
Đời tặng liền hai ả tố nga
Cuộc sống bậc trung nên giản dị
Ăn tiêu chừng mực chẳng xa hoa
Một vùng nổi tiếng ông Viên ngoại
Tâm huyết việc chung, giỏi việc nhà.


TÀI SẮC (1)
Chuyện rằng có một cặp sinh đôi
Nhan sắc trời cho đẹp tuyệt vời
Trắng mịn làn da, như tuyết trải
Mượt mà mái tóc tựa mây trôi
Khuôn trăng đầy đặn, hoa cười ngọc
Hình dáng mảnh mai, ánh mắt ngời
Chắc hẳn chị mười, em điểm chín
Xem ra thật hiếm ở trên đời.

TÀI SẮC (2)

Thật hiếm có người trên thế gian
Thông minh vốn sẵn tính trời ban
Pha nghề thi họa, niềm yêu thích
Biết đủ ca ngâm, nỗi chứa chan
Đã soạn đỉnh cao thiên bạc mệnh
Nghề riêng ăn đứt chính hồ cầm
Khúc nhà tay lụa nên xoang ấy
Say đắm lòng người thật não nhân.

TÍNH CÁCH
Phong lưu nhất mực lại yêu nghề
Xấp xỉ xuân xanh tuổi cập kê
Ong bướm đi về nàng cũng mặc
Êm đềm trướng rủ với mành tre.

ĐI TRẨY HỘI XUÂN
Ngày xuân con én cứ đưa thoi
Hoa nở, lộc non khắp đất trời
Dân chúng chỉnh trang đi trẩy hội
Chị em sắm sửa bộ hành chơi
Ngựa xe, quần áo như nêm vậy
Vó rắc, thoi vàng nối tiếp rơi
Mới độ trăng tròn còn bỡ ngỡ
Ngẩn ngơ đến xế vẫn chưa rời.


GẶP ĐẠM TIÊN
Thỏ lặn trải bao với ác tà
Mới nghe nàng đã giọt châu sa
Nấm mồ vô chủ không ai viếng
Phần mộ cô đơn chẳng trái hoa
Lừng tiếng muôn nơi tài lẫn sắc
Nổi danh khắp chốn giọng thi ca
Thúy Kiều liền vịnh vài câu chữ
Thương tiếc cho người thật xót xa.

GẶP KIM TRỌNG Ở TIẾT THANH MINH
Tiếng nhạc vàng nghe đâu rất gần
Trông chừng thấy dáng một văn nhân
Lỏng buông tay khấu đang lần tới
Lưng túi gió trăng tiến đến dần
Nho nhã, hào hoa nghe nức tiếng
Phong tư, tài mạo lắm lời khen
Tuyết in sắc ngựa, roi câu đẹp
Áo nhuộm da trời đậm nét xuân.


KIM TRỌNG XUỐNG NGỰA TỰ TÌNH
Xuống ngựa chàng Kim tới tự tình
Hài văn lần bước dặm đường xanh
Hai Kiều nhỏ nhẹ chào e lệ
Khách cũng ân cần giọng đáp thanh
Giải cấu tương phùng tâm sự thật
Đối thơ câu chữ ý chân thành
Tay cương xua ngựa bao lời hẹn
Mắt ngọc dõi theo cứ lặng thinh.

THÚY KIỀU TƯƠNG TƯ
Thúy Kiều thao thức chẳng yên mà
Góc núi mặt trời cũng đã sa
Chênh chếch trăng treo nhòm cửa sổ
Vàng gieo ngấn nước nhớ người xa
Bâng khuâng đêm đến mang đàn gảy
Nhung nhớ khuya về ngắm bóng nga
Cứ tự trách mình sao lại gặp
Để người ẩn hiện ở trong ta.


ĐẠM TIÊN BÁO MỘNG
Quen biết nhau từ một nấm mồ
Mà sao lại cứ chẳng làm ngơ
Hiện về trong mộng mười bài mới
Tay bút vẩy vào bấy ý thơ
Tài đức đôi khi hay bị hại
Hồng nhan cũng khó đắp nên bờ
Gió ngoài xịch bức mành khung cửa
Tỉnh lại ngỡ ngàng một giấc mơ.
——
* Mười bài mới: Đạm Tiên hiện về ra đề mười bài mới để cho Thúy Kiều vịnh.

KIM TRỌNG NHỚ THÚY KIỀU
Mơ thấy bóng nàng nhẹ gót tiên
Nhiều khi thao thức suốt thâu đêm
Nỗi sầu đầy ắp lòng tơ tưởng
Cách biệt xa xôi dạ chẳng yên
Khuya đến buồn sao mang sách đọc
Sáng ra ngao ngán ngắm hoa xuân
Mong sao có được lòng thanh thản
Mà vẫn không thành chẳng thể quên.

KIM TRỌNG TÌM ĐẾN VƯỜN THÚY
Nhớ tiết thanh minh cảnh đất trời
Nhớ nơi kỳ ngộ hỡi người ơi
Hỏi thăm vườn thúy không hề dễ
Tìm đến nhà nàng khó quá thôi
Phảng phất gió đưa lòng phấn chấn
Lững lờ mây lượn dạ thêm vui
Chim oanh thánh thót bên khung cửa
Ắt hẳn se duyên đã đến rồi.


HẸN ƯỚC
Nơi đây đã tới đẹp vô ngần
Vườn Thúy xanh rì đậm nét xuân
Mới đến kim thoa liền nhặt được
Vừa sang đôi lứa ước thành duyên
Của tin Kim Trọng trao tay quạt
Trái ngọc Thúy Kiều mở ngõ tiên
Chênh chếch trăng treo đòi chứng kiến
Cặp đôi hứa hẹn chuyện trăm năm.


THỀ ƯỚC TẠI PHÒNG KIM TRỌNG
Thanh vắng nhà lan thổn thức lòng
Ngẫm cơ hội đến thỏa chờ mong
Gót sen nàng nhẹ đi từng bước
Tay lụa chàng nâng mở cửa phòng
Phong nguyệt góp lời thề hẹn ước
Giao duyên câu chữ nguyền non sông
Tiếng đàn đằm thắm sao mà tuyệt
Thỏa mãn bao ngày nỗi ngóng trông.
——-
* Phong nguyệt góp lời: Câu thơ gió trăng, câu thơ vui về tình yêu.
* Nguyền non sông: Chỉ lời thề nguyền gắn bó

KIM TRỌNG VỀ HỘ TANG CHÚ
Chuyện ở Liêu Dương tin chẳng vui
Không may thúc phụ đã qua đời
Gót đầu mọi nỗi đinh ninh thế
Tang tóc việc nay lại rối bời
Đang gảy dây đàn sao lại đứt
Mới se duyên lại phải xa xôi
Não lòng lên ngựa về tang chú
Để lại Thúy Kiều giọt lệ rơi.


NHÀ HỌ VƯƠNG MẮC NẠN OAN
Ập đến ghê sao cứ rụng rời
Sai nha vây hãm thật không vui
Đầu trâu mặt ngựa đang ào tới
Tay thước, tay đao cứ sục sôi
Đan giậm, giật giàm đành chịu tội
Án ngờ cậy thế phải thua thôi
Tiếng oan dậy đất sao mà tả
Gia cảnh họ Vương đổ vỡ rồi.
——
*Đan giậm, giật giàm: Ý nói lừa đánh bẫy cho nên tội.

ĐẶT BÀY ÉP NHẬN TỘI
Cái lũ tham quan đã đặt bày
Để cho vụ án nực cười thay
Thằng bán tơ buôn hàng quốc cấm
Lại bắt Vương ông nhận tội này.


KIỀU BÁN MÌNH CHUỘC CHA
Bắt người là thói của sai nha
Rất muốn kêu trời nhưng lại xa
Ngộ biến tòng quyền đành xử trí
Minh sơn thệ hải lại phôi pha
Song thân đôi nợ chưa đền đáp
Dưỡng dục sinh thành mãi ở ta
Nghĩ đến tình thâm nàng đã quyết
Bán mình chuộc lấy tội tình cha.
——
*Ngộ biến tòng quyền: Gặp cảnh biến thì phải theo không thể giữ thường được.
*Thệ hải minh sơn: Nghĩa là thề non hẹn biển.

BÀI TÍNH CỦA THÚY KIỀU
Nàng cứ lặng người dạ chẳng yên
Sao mà khó quá nghĩ triền miên
Tai bay vạ gió điều không tưởng
Oan khốc tự nhiên ập đến luôn
Bài tính lót lo nàng đã liệu
Đến ba trăm lạng phải trao liền
Mối tình rạn vỡ mong chàng hiểu
Nặng nghĩa mẹ cha phải dứt duyên.


DẪN KHÁCH
Gần miền có mụ thật là nhanh
Dẫn khách may ra việc sẽ thành
Tên thật Giám Sinh mang họ Mã
Quê gần xã cạnh huyện Lâm Thanh
Quá niên quần áo sao mà bảnh
Ngoại tứ mày râu cũng rất sành
Sau tớ, trước thầy đà bước tới
Nhà băng đưa lối đến lầu trang.
——
* Nhà băng: Là người làm mối

THỬ TÀI LÀM GIÁ
Ngồi tót ghế trên thật sỗ sàng
Buồng trong mối đã gọi kêu nàng
Ngại ngùng giợn gió rơi dòng lệ
Trơ trẽn mặt dày tỏ vẻ sang.

Cân sắc đắn đo tài phải thử
Quạt thơ cầm nguyệt khách bàng hoàng
Đã ưng làm giá thêm rồi bớt
Bốn trăm đâu có được ngàn vàng.


TÂM TRẠNG VƯƠNG ÔNG
Thấy cảnh trong lòng lại xót xa
Thương tình dòng lệ cứ trào ra
Nỡ đày đọa đến thân con trẻ
Thật ác gây ra oan khốc già
Đầu rắp gieo tường không thiết sống
Búa rìu hình phạt chẳng nên tha
Nhỏ to nàng nói lời khuyên giải
Ông đã nguôi dần nghĩ cảnh gia.

GIAO NHẬN VÀNG
Cõi xuân tuổi hạc đã khô cành
Chẳng đỗ như hoa thật mỏng manh
Trong thấy cảnh gia còn luẩn quẩn
Bên ngoài họ Mã đã vừa sang
Tờ hoa mới ký tim đau nhói
Vàng cũng nhận xong day dứt lòng
Lo chuộc cha rồi thì phải ổn
Thế sao Kiều vẫn cứ hoang mang.
——
* Cõi xuân: Chỉ người cha.
* Tuổi hạc: Tuổi thọ lâu như chim hạc.
* Chẳng đỗ: Chẳng đậu được, ví như hoa quả không đậu được nửa chừng đã rụng đi.
* Tờ hoa: Chỉ tờ văn tự mua bán.


ĐÊM TRAO DUYÊN
1
Công việc nhà nay cũng tạm xong
Tinh kỳ giục giã nàng không mong
Áo đầm giọt lệ, sầu se tóc
Chưa ráo tờ hoa đã xót lòng
Thề nguyện tái sinh thì vẫn nhớ
Cầu mong hiện tại chẳng chờ trông
Thúy Vân linh tính nên bừng tỉnh
Trò chuyện chị em thật nghĩa tình.
——
* Tinh kỳ: Là kỳ cưới vợ, đám cưới trông thấy sao thì đi.

2
Cùng nhà đứt ruột mẹ cha sinh
Sao để chị oan có một mình
Cứ hở lời ra là đã thẹn
Nếu mà im tiếng chẳng phân minh
Nỗi riêng đương mắc còn đang rối
Vẫn vướng tơ duyên chẳng thể xong
Kiều lạy Thúy Vân rồi chắp mối
Se duyên em nhớ phải bằng lòng.


3
Khi ở phòng hoa đã rõ rồi
Rượu thề, quạt ước sẽ thành đôi
Mảnh hương nguyền ấy nay còn đọng
Thề nước non xưa chẳng thể nguôi
Gửi lạy trăm lần vì lỗi hẹn
Cầu xin ngàn chữ chẳng ghi lời
Cho dù em có nên chồng vợ
Thì cũng là do tại số trời.
——
*Mảnh hương nguyền: Những mảnh gỗ thơm (gỗ trầm hương) đốt dở trong lúc thề nguyền.
*Lời non nước: Lời thề nguyền núi sông.


4
Xuân huyên chợt tỉnh giữa giấc nồng
Tấp nập người ngoài với kẻ trong
Chưa hết giọt hồng mây lại kéo
Mới dầu cơn vựng đã mưa giông
Thúy Vân lặng tiếng sầu se dạ
Kiều nức nở nghe cũng xé lòng
Con dặn rõ lời không đổi ý
Nhờ cha trả được nghĩa cho chàng.
——
*Xuân huyên: Chỉ cha mẹ.
*Giọt hồng: Chỉ nước mắt.
*Dầu: Nguội bớt.
*Cơn vựng: Cơn ngất không biết gì cả.


MÃ GIÁM SINH ĐÓN DÂU
Đã có bao nhiêu nỗi thảm sầu
Khắc canh đang giục ngoài nam lâu
Kiệu hoa họ Mã ngay đầu ngõ
Ngựa trắng chàng Kim đang ở đâu
Lòng thắt kẻ đi người ở lại
Lệ sầu cha xót, mẹ lo âu
Trú phường nơi rước nàng về đó
Xuân khóa một mình thật đớn đau.
—–
*Khắc canh: Giờ điểm canh.
*Nam lâu: Lầu phía nam.
*Xuân khóa: Ý nói khóa kín Kiều lại có một mình.

TRONG TRÚ PHƯỜNG
Đêm khuya xuân khóa nàng bên trong
Đau xót đòi phen lại nghĩ lòng
Trinh tiết rơi vào tay họ Mã
Nhị đào thà bẻ với tình chung
Tấm thân đến bước lạc loài thế
Số phận sao mà quá mỏng manh
Phòng có con dao nàng gói sẵn
Khi cần vĩnh biệt thế là xong.


TÚ BÀ – MÃ GIÁM SINH
Cái tên họ Mã thật là hèn
Một đứa phong tình tính tiểu nhân
Đã quá chơi bời trên khắp nẻo
Quen mui tìm kiếm ở muôn miền
Giám Sinh như thế còn đang khỏe
Mụ Tú làng chơi đã hết duyên
Một giuộc cả hai gian nổi tiếng
Giả danh kiếm được rất nhiều tiền.



MÃ GIÁM SINH – TÚ BÀ
Chuyện Mã Giám Sinh hắn kiếm tiền
Hại nhiều cô gái sống không yên
Hoa khôi lại bán vào nhà chứa
Viên ngọc cứ trao phường lái buôn
Mụ Tú mua về liền nhử khách
Tay phàm đã bén ép người luôn
Có nàng ắt hẳn vui mừng lắm
Lãi được ngàn vàng lẽ tất nhiên.


Ở PHƯỜNG TRÚ
Trà mi một đóa đẹp nên thơ
Gặp phải bão giông đâu có ngờ
Phòng vắng canh thâu người chẳng thấy
Đuốc hoa vẫn đỏ nàng nằm trơ
Giọt riêng tầm tã không ngăn được
Dơ nỗi mà sầu cứ ngẩn ngơ
Khuya vắng có ai nhòm cửa sổ
Quay ra lại chính ánh trăng mờ.
——
*Trà mi: Loài hoa đẹp ví như Thúy Kiều.
*Đuốc hoa: Đèn thắp trong đêm tân hôn.
*Giọt riêng: Giọt nước mắt của nàng khóc cho nỗi niềm riêng của mình.

CHIA TAY ĐI LÂM TRUY
Vài tuần chưa cạn những lời thề
Sao ở mái ngoài đã giục xe
Ông xót dạ đau se sắt lại
Bà thương lòng cuộn nặng ê chề
Thơ đào, yếu liễu nơi xa lạ
Lủi thủi nắng mưa rời chốn quê
Giây phút chia tay rơi giọt lệ
Chỉ mong sao có được ngày về.
——
*Vài tuần: Là vài tuần rượu
*Thơ đào yếu liễu: Là ý chỉ người con gái.


TỚI LÂM TRUY GẶP TÚ BÀ
Lâm Truy nghĩ đến lòng nao nao
Một tháng vừa tròn khổ biết bao
Dừng bánh xe châu vừa tới cửa
Rèm trong người đã bước ra chào
Thoắt trông nhờn nhợt làn da phấn
Nhìn thoáng đẫy đà dáng điệu sao
Nàng cứ theo vào trong mới thấy
“Thần lông mày trắng” ở trên cao.
——
*Thần lông mày trắng: Là vị thần mà các nhà chứa thờ.

MỤ TÚ BÀ DẠY BẢO
Mấy ả bên ngoài thật lả lơi
Cứ ngồi tụm lại đón làng chơi
Nàng đang ngơ ngẩn còn chưa biết
Bà đã giảng bài miệng chẳng ngơi
Hương hỏa gia đường vừa dứt lễ
Mụ liền vắt nóc lên giường ngồi
Dạy rằng: Sang lạy mẹ đây trước
Xong đến cậu con để tạ lời.
——
*Vắt nóc: Là hành vi lố lăng, trơ trẽn, ngỗ ngược.
Ngồi vắt nóc là bắt chéo hai chân.
*Cậu con: Là ý chỉ Mã Giám Sinh.


TÚ BÀ RA OAI
Tại số mà cam bề tiểu tinh
Sao mà lại lấy yến làm anh
Bây giờ thay bậc thì ngôi đổi
Nạp thái vu quy đã cạn tình.

Nàng dám gửi lời chưa hiểu rõ
Mụ điên liền nổi cơn tam bành
Bán mua tiền nhận giao đầy đủ
Phải phép nhập gia biết phận mình.
——
*Lấy yến làm anh: Là đổi thân phận.

KIỀU TỰ VẪN
Sao mi lại chẳng nghe điều hay
Rồi tiếp phun lời thật gắt gay
Trừng mắt dọa hăm nhiều phép trị
Bì tiên đã quyết phải ra tay
Dao sẵn đâm ngay nàng tự vẫn
Roi vung định vụt mụ dừng ngay
Trong nhà người chật như nêm vậy
Bằn bặt Thúy Kiều giấc tiên say.
——
*Bì tiên: Là cái roi da.


ĐẠM TIÊN BÁO MỘNG
Hiên tây mụ cho vực nàng vào
Chăm sóc cắt người vội vứt dao
Trong giấc tiên thấy người báo mộng
Lúc miên man chị trấn an sao
Nợ đời muốn quyết sao mà được
Nghĩa nặng không đành khó biết bao
Chịu phận liễu bồ xin hết kiếp
Tiền Đường sông hẹn nước dâng trào.

TÚ BÀ DỤ DỖ KIỀU
Thuốc thang đã suốt mấy ngày đêm
Nay giấc tiên dần cũng đã tan
Nàng mệt vẫn nằm trên nệm ấm
Mụ lo đứng trực ở bên màn
Đỡ đầu khuyên giải rồi an ủi
Nâng giấc nhẹ lời thật chứa chan
Rồi dỗ con ơi đừng có dại
Tuổi nay vừa mới bước vào xuân.


ĐẾN LẦU NGƯNG BÍCH
Con hãy nghĩ suy cho phải lòng
Hiểu sao thấu đáo cứ thong dong
Nơi đây tâm tĩnh lầu Ngưng Bích
Xuân khóa tư duy ở chốn phòng
Nghĩ đến Giám Sinh mà ghê sợ
Nhớ về Kim Trọng càng yêu thương
Bẽ bàng yếu liễu đêm khuya vắng
Chẳng biết cậy đâu chỉ ngóng trông

THÚY KIỀU NHỚ NHÀ
Nhớ bao kỷ niệm ở quê nhà
Nhớ tới cảnh gia thương mẹ cha
Nhớ lúc trăng treo nhòm cửa sổ
Nhớ vàng gieo nước ngóng người xa
Nhớ đàn đêm muộn mang ra gảy
Nhớ tối khuya về ngắm bóng Nga
Nhớ tiết thanh minh cùng gặp gỡ
Nhớ thời thiếu nhỏ chẳng phôi pha.


XUẤT HIỆN GÃ SỞ KHANH
Buồn trông cửa bể lúc chiều hôm
Thấp thoáng thuyền ai vươn cánh buồm
Nghĩ đến sân Lai câu chuyện ấy
Nhớ về gốc tử vừa người ôm
Trong nhà nàng xướng vài câu chữ
Ngoài cửa ai gieo cũng mấy vần
Xuất hiện một chàng đầu chải chuốt
Dịu dàng khăn áo tuổi thanh xuân.
——
*Sân Lai: Nói về Lai Tử có hiếu với cha mẹ.
*Gốc tử: Cây do cha mẹ trồng nhớ đến nó, tỏ lòng cung kính.
*Vừa ngươi ôm: Ý nói cha mẹ đã già.

TÂM TRẠNG THÚY KIỀU KHI GẶP SỞ KHANH
Mới hỏi biết tên là Sở Khanh
Người đang thấp thoáng ở bên mành
Ngoài trông lịch thiệp sao mà tránh
Trong lắm mưu mô cũng phải đành
Tai họa ập vào thì chịu vậy
Nỗi nhà báo đáp lẽ thường tình
Lắng trong ý tứ mà suy ngẫm
Mai mốt liệu rằng có thoát chăng.


THÚY KIỀU MẮC LỪA SỞ KHANH
Bóng nga vừa mới chiếu qua mành
Có kẻ lẻn vào chính Sở Khanh
Khéo hẹn đến đêm vào cứu giúp
Giỏi lừa mai sẽ thoát lầu xanh
Lắng nghe điều đó sao mà khó
Suy xét sự tình liệu có xong
Hắn tính kế hay là phải trốn
Ngựa truy phong ắt sẽ phi nhanh.

HIỂU SỞ KHANH THÌ ĐÃ MUỘN
Đã lẻn cùng nhau trốn khỏi lầu
Để xem con tạo xoay vần sao
Lối mòn mặt cỏ sương gieo đẫm
Gió thổi mưa ngàn trút xuống mau
Xao xác tiếng gà đang rộn gáy
Ào ào vó ngựa đuổi theo sau
Sở Khanh rẽ trốn nàng không biết
Còn lại một mình thật đớn đau.


TÚ BÀ DÙNG BIỆN PHÁP NẶNG VỚI KIỀU
Chắp tay nàng cứ lạy ông trời
Bực tức Tú Bà xộc tới nơi
Giầy tía, vò hồng sao chẳng dứt
Lắm điều hăm dọa chả thèm ngơi
Dập hoa, vùi liễu còn trừng mắt
Hồng rụng, thắm rời vẫn bĩu môi
Mụ quyết giở căn bài ép buộc
Kiều xin khẩn khoản chịu nghe lời.

THÚY KIỀU XIN THA
Rằng tôi cũng chút phận đàn bà
Phải chịu rời quê đến chốn xa
Đã mắc lừa đành theo số phận
Nay vào tròng chấp nhận thân sa
Chút lòng trinh bạch cam vùi dập
Tội lỗi nhận rồi mong được tha
Mụ vẫn kể khoan còn kể nhặt
Mới đưa nàng nghỉ ở trong nhà.


LỘ DIỆN PHƠI BÀY
Lập sẵn đà đao chính một tay
Bỗng dưng đâu có sự tình này
Một đồng, một cốt sao không hiểu
Quyến gió, rủ mây mà chẳng hay
Lừa đảo Sở Khanh nay lộ diện
Dã tâm mụ Tú đã phơi bày
Giếng khơi sao nỡ gieo nàng xuống
Nói lại ăn lời thoắt được ngay.
——
*Chước đà đao: Lừa cho người ta đuổi rồi quay người lại chém.
*Quyến gió, rủ mây: Rủ rê người trốn theo mình.

ĐÀNH CHỊU SỐ PHẬN
Sở Khanh lừa đảo rõ ràng rồi
Hắn thật dơ tuồng mới tháo lui
Nàng nghĩ số mình mà thấy tủi
Kiều buồn thân phận cứ chơi vơi
Dưỡng tu kiếp trước sao còn vụng
Phấn đấu kiếp này mà chẳng xuôi
Bình đã vỡ rồi thôi chẳng tiếc
Lấy thân mà trả nợ cho đời.


TÚ BÀ DẠY NGHỀ KIỀU
Nguyệt sáng vừa tuần mụ tới nơi
Thong dong nhỏ nhẹ có răn lời
Con mà học được công phu lắm
Ta sẽ truyền cho biết mới thôi
Bảy chữ vành ngoài ru hồn khách
Tám nghề chiều chuộng hút làng chơi
Phải cho đến đỉnh mà còn khát
Để họ thỏa thuê mê mẩn đời.
——
*Bảy chữ, tám nghề: Mẹo của gái làng chơi để tiếp khách.

KIỀU ĐÀNH NGHE THEO
Con hãy nhớ lời dạy của ta
Đều là nghề nghiệp ở trong nhà
Khi thì khóe hạnh hoa cười nụ
Lúc nét nguyệt nghiêng tiếng mặn mà
Ắt phải nín hơi nghe cái lạ
Thôi đành lặng tiếng chịu điều xa
Xót mình nhưng biết làm sao được
Đã ở tay người số phận ta.
——
*Khóe hạnh: Khóe mắt liếc sắc như lá hạnh.
*Nét nguyệt: Lông mày cong như vầng trăng.


KIỀU CHỊU TIẾP KHÁCH
Cứ thế lầu xanh rủ trướng đào
Càng treo giá ngọc phải nâng cao
Mây đưa tấp nập bầy ong lại
Gió thoảng dập dìu lũ bướm chao
Đêm đến Trường Khanh đòi phải tiếp
Sáng thì Tống Ngọc bắt đưa vào
Dạn sương, dày gió nàng đành chịu
Kiếp trước nợ đời phải trả sao.
——
*Treo giá ngọc: Treo giá bán cho cao
*Trường Khanh, Tống Ngọc: Là hai chàng trai tài tử thời xưa, ở trong văn cảnh này ý chỉ những chàng trai ăn chơi phong lưu.

TÂM TRẠNG THÚY KIỀU
1
Nửa rèm tuyết đậu dưới trăng thâu
Ai đã đẩy ta xuống vực sâu
Gió trúc, mưa mai rầu nỗi nhớ
Cung cầm trong nguyệt vẫn u sầu
Ngẩn ngơ trăm mối nào ai đỡ
Trăn trở ngàn khâu nàng chịu đau
Nghĩ đến bóng dâu giờ đã ngả
Nhớ ơn chín chữ thật cao sâu.
——
*Chín chữ cao sâu: Ý chỉ công lao cha mẹ.
*Bóng dâu: Chỉ cha mẹ khi về già.


2
Ông trời đã bắt đến nơi đây
Cái số con nay lại thế này
Nghĩ cảnh sân hòe thời thiếu nhỏ
Nhớ đêm đàn gảy tuổi thơ ngây
Xót thương Kim Trọng tình dang dở
Mong đợi Thúy Vân trả nghĩa dày
Mơ giấc hương quan bao kỷ niệm
Mong toàn gia đón cảnh sum vầy.

KIỀU GẶP THÚC SINH
Xuất hiện khách du đến chốn phòng
Kỳ Tâm họ Thúc nòi thư hương
Kinh doanh buôn bán lừng muôn nẻo
Văn võ song toàn tiếng bốn phương
Ngưỡng mộ hoa khôi xao xuyến dạ
Đam mê người đẹp ngất ngây lòng
Là người huyện Tích, Thường Châu phủ
Đôi lúc ăn chơi cũng khác thường.


THÚC SINH – THÚY KIỀU
1
Mơn mởn non tơ nhánh hải đường
Mùa xuân cảnh đẹp lòng tơ vương
Mận đào sớm tối mà không dứt
Hoa nguyệt đêm khuya cũng chẳng buông
Chúc rượu, nối thơ câu chữ đẹp
Xướng ca, đàn họa lời yêu thương
Tơ duyên ngày một càng thêm gắn
Trăng gió mà nay lại đá vàng.
——
*Mận đào: Ý nói là tình tự dan díu với nhau.
*Trăng gió: Ban đầu chỉ chơi bời.
*Đá vàng: Ý nói là gắn kết nhau thực sự


2
Quen thói Thúc Sinh lại bốc trời
Trăm ngàn đổi một trận cười thôi
Xiêu đình, đổ quán chàng ham sắc
Lòng hám, say đồng mụ chẳng lơi
Trong ngọc, trắng ngà mê mẩn khách
Hương thơm, dáng đẹp dụ hồn người
Sinh càng tỏ nét còn khen nữa
Kiều đã vâng theo cũng đáp lời.
——
*Đổ quán, xiêu đình: Ý nói ái tình làm cho đổ quán xiêu đình.
*Lòng hám say đồng: Ý nói mụ Tú chỉ hám tiền bạc.


3
Rằng sao mới đến nghĩ không ra
Cứ ngỡ cành kia của Tú bà
Sinh thấy u sầu lòng quạnh quẽ
Kiều càng ủ dột sóng thu ba
Cứ như hoa đã lìa cành vậy
Cũng giống cây trồng chẳng có mưa
Đã biết thế rồi mà vẫn gắn
Đá vàng là ở tại lòng ta.
——
*Cứ ngỡ cành kia của Tú bà: Thúc sinh tưởng Kiều là con của Tú bà.
*Thu ba: sóng nước mùa thu, thường dùng để ví ánh mắt của người phụ nữ đẹp

4
Kiều biết Thúc Sinh có vợ rồi
Nhưng mà tình thế vẫn không thôi
Bình Khang nấn ná nào xa được
Tô trướng lân la chẳng thể rời
Duyên bén làm thê rằng cứ quyết
Tơ se vợ lẽ cũng nghe lời
Vững tay co để mà chèo lái
Đắp điếm còn trông số tại trời.
——
*Bình Khang: Chỉ nơi của các kỹ nữ.
*Trướng tô: Màn có kết tua bằng lụa ngũ sắc.


5
Rõ thực mà suy mới sợ lòng
Hình dung chị ấy đánh ghen chồng
Trước thì gái điếm sao mà thẹn
Nay sắp vợ hai có khác không
Số phận lầu xanh mà thiếp ngại
Xuất thân gia giáo chàng càng thương
Sinh còn phân tích rồi an ủi
Cứ trọn mọi bề thỏa ước mong.
——
*Chị ấy: Ý nói vợ cả là Hoạn Thư.

6
Đá vàng xác định nỗi chờ mong
Muốn vượt phong ba quyết một lòng
Thệ hải, minh sơn thì ắt đến
Mượn điều trúc viện chắc thành công
Chiến hòa mụ Tú đành thua cuộc
Cửa quan một thiếp sẽ hoàn lương
Gót tiên nay thoát vòng nhơ ấy
Mai, trúc bên nhau lại thắm nồng.
——
*Thệ hải minh sơn: Là thề non hẹn biển.
*Trúc viện: Nhà xung quanh trồng trúc.
*Gót tiên: Ý là chỉ Thúy Kiều.


THÚC ÔNG CÁO QUỲ CỬA CÔNG
1
Hơi tiếng vừa quen sáu tháng thôi
Sân ngô đã lẫn lá vàng rơi
Giậu thu vừa nảy giò sương đẹp
Mưa gió đã về cuốn tả tơi
Cha giữ thanh danh nên dạy bảo
Con vì tình nặng khó nghe lời
Bạc đen chàng cũng bằng lòng vậy
Có rút tay chàm đã nhuộm rồi.
——
*Sân ngô: Sân có trồng cây ngô đồng nay đã có lá vàng.
*Giậu thu: Giậu hoa mùa thu.
*Giò sương: giò hoa chịu được sương, chỉ hoa cúc.

2
Thúc Sinh đã quyết chàng đến rồi
Việc này cũng chính vì tình thôi
Đất bằng nổi sóng mà không sợ
Sờn gối sân hoa vẫn giữ lời.

Chiếu án phép công khó biết bao
Đưa ra hai cách chịu đằng nào
Một là cứ phép gia hình phạt
Hai lại lầu xanh ngươi tính sao.


3
Nhện vương tơ nay đã mấy lần
Nàng quyết một bề thật sắt son
Nguyện được cùng chàng theo án phạt
Phận đành đâu có dám kêu oan.

Phạt hình nàng cố giữ như thường
Nước thủy, gương lờ gầy vóc xương
Ngẫm đến mà lòng càng thấy xót
Nghĩ tình chàng Thúc lại càng thương.
—–
*Gương lờ nước thủy: Ý nói Kiều bị hình phạt như gương không sáng nữa.
*Vóc xương: Ý chỉ dáng người Thúy Kiều gầy guộc.

4
Khóc rằng oan khốc thật là đau
Lời trước chẳng nghe lụy đến Kiều
Dạ sáng tính mà đâu có thấu
Cạn lòng nên nghĩ cũng không sâu
Tự tin chàng mới thưa cho hết
Hy vọng nàng mong đã thỉnh cầu
Thương cảm phủ đường thu án phạt
Tạ lời xin được ở bên nhau.
——
*Lời trước: Ý nói lấy vợ lẽ nếu như Thúc Sinh về thưa chuyện trước thì đâu đến nỗi này.
*Dạ sáng: Giỏi mà không nghĩ ra sự việc này.
*Cạn lòng: Nông cạn thì không nghĩ sâu được.


5
Thúc Sinh khai nói lẽ đương nhiên
Nàng đã theo đòi ít bút nghiên
Đã thế quan cười cần phải thử
“Cái gông” thơ vịnh hãy ra liền.

Kiều vâng nâng bút tay đưa nhẹ
Một thoáng đã xong rõ phép tiên
Nàng vịnh bài thơ sao tuyệt thế
Tài sắc vẹn toàn thật đáng khen.

Đã đưa đến trước cửa công rồi
Ngoài lý, trong tình phải chịu thôi
Xem xét Thúc ông đành chấp nhận
Phủ đường se mối được thành đôi.
——
*Cái gông: Là đầu đề bài thơ quan phủ ra.

THÚC ÔNG CHẤP NHẬN PHỦ ĐƯỜNG SE MỐI
Tài sắc cả hai mới thực là
Bài thơ sắc nét tờ tiên hoa
Lễ công sắm sửa xong đầy đủ
Đã được phép rồi lên kiệu hoa.

Khúc nhạc rộn ràng sao tuyệt thế
Huệ lan sực nức cảnh ngôi nhà
Đẹp sao sen nở cùng đào thắm
Kiều – Thúc hân hoan rất mặn mà.
——
*Tiên hoa: Là tờ giấy hoa Thúy Kiều làm bài thơ.
*Lễ công: Đồ lễ do quan truyền sắm sửa để làm lễ kết hôn cho Thúc Sinh – Thuý Kiều.
*Huệ lan: Hai thứ hoa chỉ cảnh sum họp.


TÂM TRẠNG THÚC SINH
Vượt bao sóng gió được bên nàng
Sao thấy trong lòng vẫn bất an
Say đắm mặn mà tình cát lũy
Vấn vương thương nhớ nghĩa tào khang
Tính bài giấu giếm sao mà được
Còn quyết nói ra cũng khó màng
Vợ cả ở nhà tin tức bặt
Cho nên chàng mới thấy hoang mang.
——
*Cát lũy: Chỉ người vợ lẽ.
*Tào khang: Chỉ người vợ cả.

KIỀU KHUYÊN THÚC SINH VỀ THĂM HOẠN THƯ
Bấy lâu chưa tỏ người nơi xa
Liệu có làm sao khó nghĩ ra
Nàng kíp giục về thăm chốn cũ
Chàng lo cản trở nơi quan hà
Thúy Kiều phân tích sao ra lẽ
Cha cũng khuyên rằng hợp ý ta
Nghe cũng mủi lòng nên đã quyết
Tiễn đưa một chén về ninh gia.
——
*Nơi xa: Ý nói nơi quê nhà mà Hoạn Thư đang ở.
*Quan hà: Cửa ải ý nói đường xá xa xôi.
*Ninh gia: Về thăm nhà.


TÂM TRẠNG THÚC SINH, THÚY KIỀU LÚC CHIA TAY
Dài ngắn cầm tay cùng thở than
Chia phôi cảm xúc cứ dâng tràn
Nàng rằng sao giữ cho trong ấm
Chàng ngẫm thế thì ngoài mới êm
Bưng mắt, bắt chim sao thế được
Giấu che vợ lẽ cũng không bền
Lại mang cái tiếng tày trời ấy
Nhớ chén rượu này mà vững tin.
——
*Bưng mắt bắt chim: Ý nói làm một việc bất khả.
*Giấu che vợ lẽ: Ý nói che giấu thế nào rồi cũng vẫn lộ ra được.



TIỄN ĐƯA THÚC SINH VỀ THĂM QUÊ
Người lên yên ngựa, kẻ chia bào
Cửa ải, núi non khó biết bao
Đường xá xa xôi đầy hiểm trở
Vầng trăng sao nỡ xẻ đôi nào.
——
*Người lên ngựa, kẻ chia bào: Ý nói lúc chia tay, Thúc Sinh lên ngựa, Kiều cũng buông áo để chàng đi.


HOẠN THƯ
Tiểu thư vợ cả mới thực là
Lịch sự, khôn ngoan cậy thế cha
Đích thực con quan trong Lại bộ
Vốn dòng họ Hoạn cũng danh gia
Đã cùng kết tóc thề tròn kiếp
Chung bước bên nhau nguyện đến già
Nay bỗng tiếng đồn chồng vợ lẽ
Trách người đen bạc dạ trăng hoa.

HOẠN THƯ GHEN
1
Đừng bưng bít nữa hãy dừng thôi
Những thói trẻ ranh quá nực cười
Gió thoảng ngoài tai điều mách bảo
Làm ngơ đồn đại biết mười mươi
Khi thì nổi giận nhưng tỉnh táo
Lúc lại hoang mang cứ rối bời
Xuống lệnh ra uy nàng trấn áp
Nào ai còn dám nói thêm lời.

2
Khuya sớm buồng đào vẫn ngóng trông
Ra vào cười nói cứ như không
Lời tam hợp đến sao mà đẹp
Giây phút hàn huyên lại thắm nồng
Vui chén tẩy trần mà chột dạ
Mừng ly đoàn tụ vẫn e lòng
Chàng dò ý tứ mà im tiếng
Bình tĩnh giãi bày liệu có xong.
——
*Tẩy trần: Tiệc rượu rửa sạch bụi đường cho người đi xa về.

HOẠN THƯ LẬP MƯU BẮT KIỀU
1
Cứ thế thời gian lặng lẽ trôi
Giếng vàng lác đác lá ngô rơi
Hãy về nhà để thăm cha đẻ
Trở lại Lâm Truy đón thiếp thôi
Như mở tấm lòng chàng phấn chấn
Thấy se dạ lại nàng im lời
Vó câu ruổi thẳng về nơi ấy
Cửa ải ngăn sao nỗi nhớ người.
——
*Giếng vàng lác đác lá ngô rơi: Ý nói mùa thu trước đã qua nay mùa thu mới lại đến vừa tròn một năm.


NỖI LO, NỖI NHỚ CỦA THÚY KIỀU
Thúy Kiều mất ngủ lại đau đầu
Công việc ninh gia đã đến đâu
Gió lọt đêm thu tràn nỗi nhớ
Trăng nhòm cửa sổ càng lo âu
Câu thề khi ấy còn ghi mãi
Lời hứa hôm xưa vẫn khắc sâu
Mong muốn có ngày chàng trở lại
Để tình mai, trúc được bên nhau.
——
*Công việc ninh gia: Ý nói đến việc về quê thăm nhà của Thúc Sinh.

HOẠN THƯ LẬP MƯU BẮT KIỀU
2
Thủ hạ nàng sai đi tắt đường
Người mang côn trúc, kẻ cầm gươm
Trói người bịt miệng mà không xót
Thay xác đốt nhà cũng chẳng thương
Là vợ của quan mà tính xấu
Tiểu thư họ Hoạn cũng tầm thường
Vực ngay lên ngựa rồi phi gấp
Viện sách, phòng đào ngọn lửa giong.
——
*Thay xác: Lấy xác chết vô chủ trôi sông vào thay.
*Là vợ quan: Ý chỉ mẹ của Hoạn Thư.


THÚC ÔNG GỌI NGƯỜI DẬP LỬA
Thúc ông nhà ở cũng gần nơi
Thấy lửa toàn thân cứ rụng rời
Thầy, tớ vội vàng cùng chạy đến
Gọi người dập lửa thật tơi bời.

Tôi tớ tìm nàng chẳng thấy đâu
Hớt ha, hớt hải cứ nhìn nhau
Chạy vào nơi ấy trong phòng sách
Một đống xương tàn thật đớn đau.

THÚC ÔNG TANG LỄ KIỀU TẠI NHÀ
Thúc ông sùi sụt lệ trào ra
Thương tiếc Thúy Kiều thật nết na
Lo lắng thi hài gom nhặt đủ
Đưa về tang lễ tại ngay nhà.
——
*Thúc ông đặt linh sàng, bài vị của Kiều tại giữa nhà.


THÚC SINH THƯƠNG XÓT KIỀU
Lục trình chàng cũng đến bây giờ
Nơi cũ bước vào cứ ngẩn ngơ
Một đống tro tàn tường bốn phía
Sách đen từng mảng chốn lầu thơ.

Sang tới nhà cha chàng khóc than
Nén hương cha thắp vẫn chưa tàn
Linh sàng, bài vị nàng đâu muốn
Tài, sắc, đức mà lại thác oan.

MỜI THẦY CÚNG TÌM KIỀU
Nghe nói có thầy huyện cạnh bên
Phi phù trí quỷ rất thông huyền
Sắm sanh lễ vật sang mời đến
Tìm giúp được nàng để hỏi han.


Chẳng thấy mặt nàng thầy đã tra
Người này nặng nghiệp thật oan gia
Còn nhiều nợ lắm sao mà thác
Năm tới gặp rồi càng xót xa.
——
*Phi phù trí quỷ: đốt bùa cho bay đi mà gọi được quỷ thần đến.
*Thông huyền: Thông được mọi cõi huyền bí.


THUYỀN CẬP BẾN
Cái số của nàng về cõi tiên
Hoa trôi, nước chảy thế là yên
Nào ngờ bịt miệng cho lên ngựa
Đâu biết trói chân vực xuống thuyền
Nàng bị thuốc mê vì chữ thiện
Chàng thì sợ vợ trở nên hèn
Xuôi về Vô Tích đưa vào bến
Thủ hạ bàn giao muốn thưởng tiền.

ĐẾN LÂU ĐÀI
Vực nàng xuống tạm ở môn phòng
Thiêm thiếp chưa phai được giấc nồng
Đến lúc hết mê rồi chợt tỉnh
Cửa nhà đâu hết thấy người đông.

Đang nghĩ lâu đài này ở đâu
Sảnh đường đã gọi bắt lên hầu
Bàng hoàng dở tỉnh còn say nữa
Mấy ả hoàn cùng lúc giục mau.
——
*Môn phòng: Phòng ở của thuộc hạ.
*Ả hoàn: Là đầy tớ gái.
*Lâu đài: Nhà của mẹ Hoạn Thư.


PHU NHÂN MẮNG CHỬI KIỀU
Mẹ đẻ Hoạn Thư rõ thực là
Cùng con nghĩ kế hại người xa
Kiều vừa tỉnh giấc còn e sợ
Bà đã điên cuồng cứ hét la
Mắng chửi con này đâu có thiện
Kêu rằng đứa ấy thật ranh ma
Lộn chồng, trốn chúa sao mà ghét
Ắt phải nghe lời phép của ta

RA ĐÒN DẠY BẢO KIỀU
Ra sức trúc côn cứ đập vào
Người thì bầm tím, lệ thì trao
Một phen sóng gió nàng kinh sợ
Tóc lại rối bời đau đớn sao.

Quản gia thấy thế cũng thương tình
Chẳng giúp được gì cứ lặng thinh
Bà dạy làm nô thì phải chịu
Nàng lo sao giữ được thân mình.


PHẢI CHỊU SỐ PHẬN
Kiếp trước hay chăng vẫn nợ nần
Để nay phải chịu cảnh lầm than
Làm hầu mong được nơi nương tựa
Nhà mất hết rồi giọt lệ chan.

Kiều đã theo hầu những tháng qua
Hoạn Thư nay muốn về ninh gia
Mẹ con trò chuyện lân la mãi
Bà muốn dặn nàng mới gọi ra.

VỀ Ở LẦU TRANG
Nhỏ nhẹ bà răn rất rõ ràng
Hãy về bên ấy chốn lầu trang
Lĩnh lời Kiều mới y theo phép
Địa ngục nơi đây số phận nàng.

Đàn sáo bắt nàng thử nghe chơi
Lựa dây Kiều gảy rõ từng lời
Thấy hay thương cảm Hoạn Thư quyết
Ngươi miễn kẻ hầu chơi nhạc thôi.


THÚC SINH VỀ QUÊ THẤY KIỀU
Tâm trạng chàng nay vẫn não nề
Thu vừa mới đến về thăm quê
Hoạn Thư ra đón niềm phấn khởi
Giây phút hàn huyên thật dã dề.

Phòng trong lan tới gọi Kiều ra
Một bước, một dừng từ ở xa
Có phải đèn lòa hay nắng quáng
Ngồi kia chàng Thúc rõ đây mà.

GẶP NHAU ĐAU ĐỚN XÓT XA
Nhìn rõ Thúc Sinh đúng thực rồi
Hoạn Thư nham hiểm quá đi thôi
Trúc mai mà trở nên nông nỗi
Con ở, chúa nhà phải tách đôi.

Sinh đà phách lạc lại hồn xiêu
Chẳng phải thương ôi số phận Kiều
Đã thế thì làm sao thoát được
Chàng hèn, nàng khổ biết bao nhiêu.


KIỀU PHẢI HẦU RƯỢU THÚC SINH – HOẠN THƯ
Vất vả đường xa thì tất nhiên
Tẩy trần mượn chén giải ưu phiền
Nàng thì chịu cảnh nô hầu rượu
Chàng cũng phải làm chúa kén ăn
Bắt bẻ – tiểu thư không thiện chí
Nói cười – chủ cũng chẳng hề duyên
Thúc Sinh giả bộ chơi bài lảng
Thẹn bởi vì sao lại quá hèn.
——
*Nói cười chẳng hề duyên: Ý nói Hoạn Thư cười nói không tự nhiên.

KIỀU DẠO ĐÀN HẦU RƯỢU THÚC SINH – HOẠN THƯ
Tiểu thư cười nói lại còn say
Chưa xong cuộc rượu đã chơi bày
Rằng: Hoa nô có nhiều tài lắm
Ra dạo khúc đàn thế mới hay.

Ra trước bàn the Kiều vặn đàn
Bốn dây như khóc lại như than
Khiến chàng trên tiệc lòng đau đớn
Ngoài có kẻ chê trong khóc thầm.
——
*Hoa nô: Chỉ Thúy Kiều.
*Trong khóc thầm: Ý nói nỗi lòng Thúc Sinh


HOẠN THƯ BỰC TỨC THÚC SINH CAY ĐẮNG
Tiếng dạo thở than ý tứ gì
Cuộc vui gảy khúc ấy làm chi
Tiểu thư cau mặt rồi nghiêm bảo
Phá hết cuộc chơi chỉ tại mi.

Thúc Sinh gan héo lại ruột dầy
Tiệc rượu đau ngầm uống thật say
Cái máu Hoạn Thư ghen đáng sợ
Nỗi lòng càng nghĩ lại càng cay.


HOẠN THƯ NHỜ THÚC SINH TRA HỎI KIỀU
Chạm mặt Hoạn Thư đè vặn tra
Lựa lời Kiều mới thực thưa qua
Tiểu thư lại đánh bài nhờ cậy
Chàng hãy hỏi tra cho rõ ra.

Nói ra lại lụy đến nàng mà
Cũng phải đánh liều đành hỏi tra
Quỳ trước Hoạn Thư, Kiều cúi lạy
Thân cung thảo gấp một tờ hoa.
——
*Thân cung: Là khai trình ra.
*Tờ hoa: Tờ giấy Kiều viết lời khai.


HOẠN THƯ CHẤP NHẬN ĐỀ NGHỊ CỦA THÚY KIỀU
Kiều đã viết xong rồi đệ trình
Tiểu thư xem cũng chút thương tình
Hồng nhan bạc mệnh đời chìm nổi
Hỏi lại liền ngay với Thúc Sinh.

Trong tờ ý tứ chút tình thương
Bạc mệnh rắp đem nhờ cửa không
Thôi cũng nghe theo lời nói thật
Để cho khỏi lụy ở trong lòng.
——
*Cửa không: Ý nói là cửa Phật.


Ở QUAN ÂM CÁC
1
Đến quan âm các vườn từ xưa
Trăm thước có cây, hoa bốn mùa
Có cả san hồ và cổ thụ
Chép kinh nàng được ở trong chùa.

Đăng đèn, trà quả với hương hoa
Ngũ giới, tam quy nàng xuất gia
Nay có cà sa Kiều đã mặc
Pháp danh theo phép chùa đề ra.
——
*Quan âm các: Là nơi thờ Phật.
*San hồ: Là núi đắp ở hồ để làm cảnh.
*Tam quy, ngũ giới: Là những điều của nhà Phật. Áp dụng cho những người tu hà


2
Khuya sớm dầu đèn cũng mặn mà
Chép kinh, đọc sách ngắm cỏ hoa
Nhân duyên đâu có còn mong nữa
Rừng tía chốn này là ở ta.

Trăng ở sân thu đã đứng đầu
Quan phòng canh chặt, chốt cài mau
Nâu sồng ắt dập tình duyên ấy
Chắc sẽ không còn gặp được nhau.
——
*Nhân duyên: Ý nói từ nay Kiều đi tu không còn nhân duyên gì với người phàm.
*Rừng tía: Chỉ nơi cảnh Phật.
*Nâu sồng: Quần áo nhà chùa.


3
Hoạn Thư nhân buổi phải về nhà
Sinh mới thừa cơ bước lẻn ra
Đến mé vườn hoa chàng muốn nói
Do mình đã chẳng biết lo xa.

Thấp cơ đã thua chí đàn bà
Ruột thắt bây giờ mới nói ra
Lên thác, xuống ghềnh mà vẫn vượt
Thế mà nay phải chịu chia xa.

Hoạn Thư trong truyện Kiều đánh ghen tình địch như thế nào?


4
Nàng thở than: Chiếc bách sóng đào
Trăm thân dễ chuộc mấy lời sao
Sống thừa sao đến đây rày nữa
Càng nghĩ càng đau đớn biết bao.
——
*Chiếc bách: Chiếc thuyền gỗ bách.
*Sóng đào: Là sóng lớn.


5
Sinh rằng: Hãy xa chạy cao bay
Ân ái đôi ta chỉ thế này
Nham hiểm lòng người sao biết được
Ở thêm giông tố đến thì gay.

Ấy thế mà sao chẳng nỡ rời
Lời sao chưa hết lệ thì rơi
Ngập ngừng nuốt tủi trong im lặng
Chợt thấy Hoạn Thư đứng cạnh rồi.

6

Ngọt ngào nói nói, lại cười cười
Chàng mới ở nơi nào đến chơi
Sinh cứ quanh co đành nói dối
Tiện đường rẽ ngó viết kinh thôi.

Khẽ hỏi hoa tỳ biết trước sau
Hoa rằng: Bà đến đã từ lâu
Nhón chân đứng núp chừng nửa tiếng
Nghe hết những lời hiểu rõ nhau.
——
*Hoa tỳ: Người hầu gái.

7
Gan của Hoạn Thư thật lạ đời
Nghĩ mà thêm nỗi sởn gai thôi
Để cho chàng Thúc đành tay bó
Máu đánh ghen sao vẫn ngọt lời.

Lời ngọt ngào này thật hiểm sâu
Thân ta ta phải phải lo âu
Miệng hùm, nọc rắn càng nên tránh
Ác mãi có ngày sẽ ngã đau.


KIỀU TRỐN KHỎI QUAN ÂM CÁC
Phận bèo lên thác lại xuống ghềnh
Lênh đênh đâu nữa cũng lênh đênh
Chỉn e nơi khách một mình đến
Chưa chắc lo thân được ấm vành.

Phật tiền sẵn có đồ kim ngân
Kiều giắt bên mình để hộ thân
Đêm đã về khuya nàng bỏ trốn
Cất mình qua cái ngọn tường hoa.
—–
*Đồ kim ngân: Là những đồ thờ Phật bằng vàng..
*Hộ thân: Là phòng bị cho mình.


KIỀU ĐẾN CHIÊU ẨN AM
Trông thấy bóng chùa ở nẻo xa
Bâng khuâng chẳng biết đâu là nhà
Rành rành “Chiêu Ẩn am” ba chữ
Kiều gõ cửa ngoài rạng sáng ra.

Nghe tiếng trụ trì mời đón xong
Thấy mầu ăn mặc bộ nâu sồng
Giác Duyên sư trưởng lòng thương cảm
Khánh bạc, chuông vàng nàng hiến luôn.
——
*Chiêu Ẩn am: Là tên ngôi chùa. Nghĩa đen của tên này là chùa chiêu nạp những người ẩn dật, nương náu.
*Trụ trì: Nhà sư giữ chùa và tu hành ở đó.
*Khánh bạc, chuông vàng: Là đồ thờ Kiều lấy của nhà Hoạn Thư.


KIỀU Ở CHIÊU ẨN AM
Chỉn e đường xá có một mình
Hằng Thủy và ta rất hậu tình
Được nhận nương thân nơi cửa Phật
Thúy Kiều cảm tạ rất chân thành.

Lá bối sớm trưa với phướn mây
Hương, đèn, trà, sách đã quen tay
Thấy nàng thông tuệ sư mừng lắm
Nàng cũng vững chân ở chốn này.
——
*Hằng Thủy: Tên vị sư trưởng mà Giác Duyên biết.
*Lá bối, phướn mây: Là những vật dụng trong chùa. Câu này chỉ công việc của Kiều là chép kinh, treo phướn, hạ phướn.


KIỀU RỜI XA CHIÊU ẨN AM
Có người đàn việt lên cửa già
Giở đồ chuông khánh để xem qua
Khen rằng khéo giống bên Âm các
Nghe nói Giác Duyên người lặng ra.

Lánh xa lo liệu phải tìm đường
Nghĩ đến sự nàng thì cũng thương
Giới thiệu Bạc bà nơi chốn ấy
Thường sang Chiêu ẩn sắm dầu hương.
——
*Đàn việt: Là người mộ đạo hay đi lễ chùa.
*Cửa già: Từ dùng chỉ cửa Phật.
*Âm các: Quan âm các nhà họ Hoạn.


KIỀU ĐẾN Ở NHÀ BẠC BÀ
Dọn đến Bạc gia để trú chân
Mừng thầm được chốn để an thân
Ngờ đâu gặp tổ chuyên lừa đảo
Họ Bạc, Tú bà cùng một môn.

Xúi giục Bạc bà nói phải nên
Lấy lời hiểm ép duyên Châu Trần
Phá gia tội nặng bà hăm dọa
Đâu có chỗ nào dám giữ chân.
—–
*Ép duyên Châu Trần: Ép phải lấy chồng.

KIỀU Ở NHÀ BẠC BÀ
Bạc Hạnh là tên cháu của bà
Cửa hàng buôn bán tiếng gần xa
Nối duyên mà cứ như y án
Xong đến Châu Thai ý mụ ta.

Càng nghe mụ nói đau như dần
Túng đất nghĩ mình đã sẩy chân
Nay đến thế cùng không thoát được
Giống như con én lạc xa đàn.
——
*Bạc Hạnh: Là cháu của Bạc Bà.


KIỀU THÀNH THÂN VỚI BẠC HẠNH
Nay đã cùng đường theo chữ tòng
Biết người sao biết ở bên trong
Bán hùm, buôn sói nàng lo lắng
Vượt bể ra khơi đợi tấm lòng.

Quét sân, đặt trác, rửa bình nhang
Quỳ xuống Bạc Sinh lạy vội vàng
Ở giữa sân hoa lòng giãi tỏ
Thành thân Kiều vẫn nghĩ miên man.
—–
*Chữ tòng: Là theo chồng.
*Bán hùm, buôn sói: Ám chỉ việc buôn bán người.


KIỀU BỊ BÁN VÀO LẦU XANH Ở CHÂU THAI
Thuyền vừa cập bến còn đang say
Lên trước Bạc Sinh như mọi ngày
Bán thịt, buôn người nàng đã rõ
Đây nhà hành viện vẫn xưa nay.

Thuê mướn rước nàng bằng kiệu hoa
Bạc đem mặt bạc chạy cho xa
Đến nơi kiệu đặt nơi thềm ấy
Đã thấy mụ ra giống Tú Bà.
—–
*Hành viện: Giống như lầu xanh.


CÁI SỐ THẾ RỒI
Vào lạy gia đường nàng lặng thinh
Cũng thần mày trắng chốn lầu xanh
Thoắt trông nàng đã hình dung đến
Cái cảnh xưa kia đến với mình.

Chém cha cái số kiếp hoa đào
Đã gỡ được ra lại mắc vào
Nghĩ đến mà lòng ngao ngán quá
Cuộc đời tủi nhục đến khi nao.
——
*Số hoa đào: Theo tử vi là cái số bạc mệnh lấy nhiều đời chồng hoặc làm gái giang hồ.

KIỀU GẶP TỪ HẢI
Gió mát, trăng thanh cảnh đẹp trời
Biên đình có khách rẽ sang chơi
Vai năm tấc rộng, thân mười thước
Hàm én, râu hùm tuyệt quá thôi.

Đường đường một bậc tiếng anh hào
Gươm, giáo, côn quyền khí thế cao
Đạp đất, đội trời không biết mỏi
Họ Từ tên Hải tiếng vang sao.

Từ Hải vốn người ở Việt Đông
Gươm đàn nửa gánh với non sông
Giang hồ quen thú luôn vùng vẫy
Mong gặp người thương thực tấm lòng.


TỪ HẢI – THÚY KIỀU
1
Qua chơi nghe tiếng của nàng Kiều
Nhi nữ anh hùng dạ cũng xiêu
Cùng liếc hai bên đồng cảm xúc
Lòng như hứa hẹn được bên nhau.

Nghe nói đã lâu tiếng má đào
Gặp người trăng gió vật vờ sao
Anh hùng cũng phải tìm hoa đẹp
Liệu mắt ngọc kia có dễ vào.
——
*Mắt ngọc: Ý nói đôi mắt đẹp của Kiều.

2
Người dạy xem ra cũng quá lời
Thân này đâu dám nghĩ thường ai
Từ rằng: Lời nói sao tình tứ
Mong được nên duyên thuận ý trời.

Từ đất Tấn Dương sẽ có phen
Đế vương sự nghiệp ắt làm nên
Rộng thương cỏ nội hoa hèn kém
Bèo bọt chút thân cũng dám phiền.
——
*Tấn Dương: Nơi đất Đường Cao Tổ làm nên sự nghiệp.
*Cỏ nội, hoa hèn: Ý Kiều ví mình hèn kém đâu dám sánh với Từ Hải.


3
Thấy vui xua hết những sầu đau
Vừa ý nàng nghe đã gật đầu
Khen cho con mắt tinh đời ấy
Sướng khổ thế nào cũng có nhau.

Ngỏ lời giọng nói rất ân cần
Chàng cứu nàng ra được kết duyên
Màn bát tiên, đặt giường thất bảo
Buồng riêng chỉnh sửa chốn thanh nhàn.
——
*Màn Bát tiên: Màn có thêu tám vị tiên.
*Giường thất bảo: Giường có gắn bảy vật quý.


4
Sánh phượng đẹp duyên được cưỡi rồng
Nửa năm hương lửa vẫn đang nồng
Trông vời trời bể mênh mông thế
Chàng đã động lòng đến bốn phương.

Thanh gươm, yên ngựa vẫn chờ mong
Phận gái xưa nay giữ chữ tòng
Tâm phúc, tương tri chàng hiểu rõ
Xin đi nhi nữ lẽ thông thường.
——
*Sánh phượng, cưỡi rồng: Ý chỉ đôi trai tài gái sắc Từ Hải – Thúy Kiều
*Tâm phúc tương tri: Biết rõ lòng dạ của nhau.


5
Dậy đất cờ bay phải rợp đường
Tinh binh mười vạn rất phi thường
Từ rằng: Xin hãy chờ ngày ấy
Mới sắm kiệu hoa để đón nàng.

Quyết lời dứt áo đã ra đi
Chỉ một năm sau có vội gì
Đằng đẵng đêm thâu mong trở lại
Trong lòng lời nói mãi còn ghi.

TÂM TRẠNG THÚY KIỀU VỚI CHA MẸ Ở QUÊ NHÀ
Đoái trông muôn dặm đến nơi nhà
Hồn quê mây núi gợi lòng ta
Tấm thân xa nhớ sao mà tả
Huyên cỗi, xuân già ở cách xa.

Chút nghĩa tiếc thay đã cũ càng
Dẫu lìa vẫn ngấm ở bên trong
Vì tình nghĩa ấy nên nàng mới
Se mối duyên em với chỉ hồng.
——
*Huyên cỗi, xuân già: Ý nói cha mẹ đã già cỗi.
*Chút nghĩa cũ càng: Ý nói mối tình với Kim Trọng đã lâu.


TỪ HẢI – THÚY KIỀU
6
Luống những ngày đêm vẫn nhớ thầm
Đã mòn con mắt chốn xa xăm
Bỗng trời sát khí như mơ vậy
Binh giáp vây quanh mười vạn quân.

Khuyên tạm nhủ nàng lánh một nơi
Nàng rằng: trước đã hẹn lời rồi
Còn đang dùng dắng, còn ngơ ngẩn
Đã thấy cờ bay cứ rợp trời.
—–
*Sát khí: Ý chỉ đoàn quân của Từ Hải kéo về.

7
Khí thế giáp binh tiến đến gần
Đồng thanh lên tiếng gọi phu nhân
Hai bên có đến mười viên tướng
Cởi giáp khấu đầu ở trước sân.

Thể nữ cung nga cũng tức thì
Rằng vâng lệnh chỉ rước vu quy
Hoa quan phấp phới hà y sắc
Phượng liễn loan nghi đã chuẩn y.

Hỏa bài, tiền lộ ruổi thêm mau
Nổi trước trúc tơ, kiệu kéo sau
Súng phát vang lên, cờ rực rỡ
Từ công ra đón ngẩng cao đầu.
——
*Hoa quan: Là mũ hoa, chỉ mũ Từ Hải sai đem đến cho Kiều.
*Phượng liễn, loan nghi: Là kiệu và đồ nghi lễ chạm loan phượng.
*Hỏa bài tiền lộ: Thẻ bài sai quân mang đi trước.


8
Hàm én, mày ngài vẫn vốn xưa
Tuyệt vời sao cá nước duyên ưa
Vẫn nhớ lời xưa chàng trở lại
Hỏi rằng: Nàng đã ấm lòng chưa?

Nàng rằng: Thân phận chút thơ ngây
May mắn dựa nhờ vào bóng cây
Có được hôm nay xin cảm tạ
Mong sao giữ được chẳng hề lay.

Về đến ninh gia cùng tự tình
Tiệc bày thưởng tướng với khao binh
Vinh hoa bõ lúc phong trần ấy
Trống trận, nhạc quân cứ xập xình.
—–
*Cá nước duyên ưa: Ý nói duyên vợ chồng.

KIỀU BÁO ÂN BÁO OÁN
1
Thong dong câu chuyện lúc vui vầy
Kể cảnh hàn vi thật đắng cay
Vô Tích, Lâm Truy đều đáng sợ
Nơi thì lừa đảo, chỗ tra đày.

Từ công nghe nói thật bàng hoàng
Điểm tướng, nghiêm quân thế sẵn sàng
Một lệnh dưới cờ cùng xuất phát
Lâm Truy, Vô Tích tiến quân sang.

Tầm nã bắt về để hỏi tra
Lại sai lệnh tiễn cũng truyền qua
Giữ giàng họ Thúc cho nguyên vẹn
Mụ quản, Giác Duyên đón rước ra.
——
*Lệnh tiễn: Cờ lệnh cho quân lính cầm đi để truyền lệnh hay mời gọi.


2
Một mẻ bắt về hết các mi
Vệ cơ, thị lập đứng song phi
Sẵn sàng tề chỉnh nghiêm trang lắm
Thẩm phán Thúy Kiều cũng rất uy.

Thúy Kiều, Từ Hải sánh đôi ngồi
Tiếng trống tiên nghiêm chưa dứt hồi
Ân oán thế nào chàng đã nói
Báo đền xử quyết do nàng thôi.

3
Truyền lệnh cho mời đến Thúc lang
Chân tay run rẩy, mặt như chàm
Lâm Truy người cũ chàng còn nhớ
Chẳng vẹn tròn sao được chữ tòng.

Còn vợ của chàng mới thực là
Con người quỷ quái thật ranh ma
Ông trời có mắt sao mà tránh
Kẻ cắp hôm nay gặp bà già.

Kiến bò miệng chén cũng chưa lâu
Không ghép tội chàng, trả nghĩa sâu
Trông mặt Thúc Sinh càng tái ngắt
Tha mà hổ thẹn lòng thêm đau.

4
Nghĩ thầm phán quyết phải không sai
Sư trưởng, quản gia gọi thứ hai
Thoắt đưa lên trước ngồi nghiêm chỉnh
Xin hãy nhìn xem có nhớ ai.

Hai người nửa sợ, nửa mừng vui
Nàng nói rằng: Xin hãy rốn ngồi
Xin cho rõ mặt người ân oán
Rồi để hậu tra giờ tạm thôi.
——
*Sư trưởng: Là Giác Duyên.
*Quản gia: Quản gia nhà họ Hoạn.


5
Gươm tuốt dưới cờ cứ sáng lòa
Gọi tên thủ phạm Hoạn Thư ra
Thoắt trông nàng đã chào thưa trước
Nay gặp tiểu thư duyên đấy mà.

Hoạn Thư hồn lạc, phách càng xiêu
Dưới trướng kêu ca khéo lựa điều
Tôi phận đàn bà nên nhỏ mọn
Đánh ghen là để giữ chồng yêu.

Khó dễ chồng chung hành động sai
Trót lòng gây việc thật chông gai
Mong nhờ lượng bể mà tha thứ
Rung động nàng khen nói có bài.

Người ấy tuy rằng ác với ta
Nếu làm ra cũng nhỏ nhen mà
Hoạn Thư đã tạ đành nương vậy
Lệnh xuống trướng tiền đã được tha.


6
Lại dắt một dây dẫn tiếp vào
Nàng rằng: Lồng lộng có trời cao
Bạc Bà, Bạc Hạnh rồi ưng khuyển
Mụ Tú, Sở Khanh cãi thế nào.

Cùng lúc đưa vào Mã Giám Sinh
Các tên tội ấy đáng gia hình
Máu rơi, thịt nát tan tành hết
Người thấy, kẻ trông ai cũng kinh.

7
Có phải chăng muôn sự tại trời
Phụ người, người phụ lại mà thôi
Những người bạc ác tinh ma ấy
Phải chịu kêu sao với lẽ đời.

Mình làm, mình chịu chẳng ai thương
Đầy đủ ba quân ở pháp trường
Báo phục nàng làm trời chứng kiến
Thanh thiên, bạch nhật mọi người trông.

Giác Duyên vội vã lời từ quy
Nàng nói rằng: Thiên tải nhất thì
Cố nhân nay gặp bàn hoàn đã
Sao quá vội vàng, ở lại đi.
——
*Từ quy: Cáo từ ra về.
*Thiên tải, nhất thì: Ngàn năm có một lần.
*Bàn hoàn: Chỉ sự gặp gỡ quấn quýt.


GIÁC DUYÊN – THÚY KIỀU CHIA TAY NHAU
Cũng chẳng còn lâu hai chúng ta
Năm năm rồi sẽ chẳng bao xa
Nhớ ngày hành cước, sư Tam Hợp
Đã báo rằng sau lại gặp mà.

Điều trước đã tin còn việc sau
Vẫn còn ân ái sẽ cùng nhau
Cơ duyên đã hết đâu mà vội
Tiền định tiên tri rất nhiệm mầu.

Ân oán hôm nay đã rạch ròi
Bể oan rồi cũng sẽ dần vơi
Giác Duyên đã nhận lời căn dặn
Rồi thoắt rời chân tới cõi ngoài.
——
*Hành cước: Đi bộ hóa duyên của nhà sư.

KIỀU TẠ ƠN TỪ HẢI
Ân oán đôi đàng việc đã xong
Thúy Kiều cúi lạy trước Từ công
Trộm nhờ sấm sét ra tay giúp
Mới được như nay thỏa tấm lòng.

Từ rằng: Quốc sĩ vốn xưa nay
Tri kỷ chọn đâu chỉ một ngày
Gặp chuyện bất bằng đâu lại bỏ
Anh hùng ai thấy cũng ra tay.

Xót nàng còn có chút song thân
Người Việt cách xa với kẻ Tần
Muôn dặm một nhà sao gặp mặt
Cho lòng mãn nguyện mối tình thân.


SỨC MẠNH CỦA TỪ HẢI
Mở tiệc khao quân chàng lệnh truyền
Tẩy oan rồi cũng bõ gian nan
Phô trương quân tướng nay mười vạn
Từ ấy quân uy tựa sấm rền.

Triều đình riêng một góc trời ta
Văn võ hai bên rạch sơn hà
Từ Hải thế quân hùng mạnh lắm
Phía nam đạp đổ đến năm tòa.

Phong trần Từ Hải đã mài gươm
Chẳng kém, chẳng thua gì bá vương
Hùng cứ năm năm miến đất ấy
Trước cờ ai dám đến tranh cường.


TỪ HẢI ĐẦU HÀNG TRIỀU ĐÌNH
1
Tổng đốc viên quan vốn trọng thần
Là Hồ Tôn Hiến giỏi kinh luân
Đã từng nổi tiếng khi giao trận
Dẹp giặc không cần đợi lệnh trên.

Biết Từ là một đấng anh hùng
Biết nàng cũng giỏi bàn luận trung
Đóng quân làm chước chiêu an đã
Vàng lễ ngàn cân vẫn thuận ưng.

Vàng ngọc hai bên thỏa thuận rồi
Từ công phút chốc mơ hồ thôi
Một tay gây dựng giang sơn ấy
Bể Sở, sông Ngô tiếng khắp nơi.
——
*Kinh luân: Là giỏi sử trí việc nước.


2
Về với triều đình chẳng nghĩ sâu
Hàng thần thân phận sẽ ra đâu
Vào luồn ra cúi công thần ấy
Cũng chẳng bằng riêng được ngẩng đầu.

Nàng thì thật dạ đã tin người
Nhận lễ cho nên mới ngọt lời
Mặt nước, cánh bèo năm tháng ấy
Mong ngày yên ổn thế mà thôi.

Vẹn cả việc tư đến việc công
Mới đem lời ngọt dụ khuyên chồng
Muốn ngôi mệnh phụ nàng mơ ước
Để rạng mẹ cha ở cố hương.
——
*Hàng thần: Kẻ nổi dậy bị triều đình thu phục.
*Công hầu: Tước vị cao trong triều đình.
*Mệnh phụ: Là vợ của quan to có tước vị.


3
Trên cũng vì nước dưới cũng nhà
Đắc trung, đắc hiếu cả hai mà
Còn hơn chiếc bách trôi dòng nước
Sóng vỗ hãi hùng nước cuốn sa.

Nhân lúc chàng chưa biết tính sao
Thừa cơ nàng mới nói ra vào
Rằng: Trong thánh trạch dồi dào ấy
Công đức nhà vua lớn biết bao.

Việc dấy bình đao cũng đã lâu
Đống xương Vô Định cao bằng đầu
Để tiếng về sau là giặc phản
Ngàn năm chẳng có người khen đâu.
—–
*Thánh trạch: Ý nói ơn nhà vua.
*Đống xương Vô Định: Xương của người chết trận trên sông Vô Định.


4
Lời nói ngọt sao ý của nàng
Từ công đã quyết định theo hàng
Vội vàng tiếp sứ y nghi lễ
Thúc giáp hẹn kỳ để giải binh.

Thành hạ yêu minh đã chắc lời
Lệnh truyền đột ngột quá đi thôi
Việc công chẳng giữ giàng chi nữa
Vương sư dòm dõ tỏ tường rồi.
——
*Thúc giáp: Cởi áo giáp bó lại.
*Vương sư: Là quân của nhà vua.


TỪ HẢI BỊ THUA TRẬN
Trễ tràng Từ Hải đã không phòng
Quyết kế Hồ Tôn đã tấn công
Lễ trước, phục sau sao biết được
Kéo cờ ngay chiêu phủ tiên phong.

Lễ phục đại quan đầu cửa viên
Hồ công ám hiệu với trận tiền
Ba bề súng nổ cờ nhiều phía
Từ Hải sững sờ giờ chẳng yên.

Bất ý Từ công bị đánh luôn
Hùm thiêng sa lưới trở nên hèn
Tử sinh liều giữa vòng vây hãm
Thể hiện gan dày phách tướng quân.
——
*Lễ trước, phục sau: Ý nói lễ dụ hàng đi trước, binh phục sau.
*Lễ phục đai quan: Là lễ hàng quan to ra đầu hàng.


TỪ HẢI CHẾT ĐỨNG
1
Ôi! Khí thiêng đã hun đúc nên
Thác rồi mà vẫn đứng chôn chân
Vững như đồng vậy, trơ như đá
Lay chẳng hề chi, rung chẳng mần.

Sát khí ngất trời tiếng súng vang
Trong hào, ngoài lũy cũng tan hoang
Loạn quân vừa dắt tay nàng đến
Đã thấy đạn tên khắp ngực chàng.

Thấy Từ vẫn đứng giữa trời mây
Nàng khóc vì sao lại thế này
Nghe thiếp mà nay chàng chết đứng
Mặt nào mà trông thấy nhau đây.

2
Sống thác chàng ơi vẫn có nhau
Dòng thu như dội bởi cơn sầu
Nàng vừa phục xuống chàng liền ngã
Lầm lỗi nghĩ mình thật đớn đau.

Kẻ lại người qua, quan với quân
Xót nàng nên cũng vực ra dần
Đưa vào đến trước trung quân đặt
Hồ công thấy mặt cũng ân cần.


HỒ TÔN HIẾN VỚI THÚY KIỀU
Hồ rằng nàng chút phận hồng nhan
Gặp phải chiến tranh cũng lắm nàn
Thành toán miếu đường là thế đó
Giúp công lời ngọt mới làm nên.

Sự việc giờ đây cũng khó sao
Việc nay nàng muốn xin gì nào
Kiều nghe giọt lệ như mưa đổ
Mới gửi ngập ngừng lời thấp cao.
——
*Nàn: Là tai nạn, hoạn nạn
*Thành toán miếu đường: Mưu trước sắp đạt sẵn ở chỗ miếu đường. Tức là ở triều đình.


THÚY KIỀU ĐAU ĐỚN
Rằng Từ là một đấng anh hùng
Trời bể dọc ngang đang vẫy vùng
Chàng quá tin tôi mà đổi hướng
Quyết làm tôi ở chốn triều cung.

Phút chốc ai ngờ nát thịt xương
Năm năm trời bể cũng ngang tàng
Khéo khuyên lời ngọt làm công ấy
Nàng thấy mình đau tận đáy lòng.


CHÔN CẤT TỪ HẢI
Xét thấy Từ công có tội rồi
Nàng nay đến nước liều mình thôi
Xin cho tiện thổ một doi nhỏ
Chôn cất người sinh tử với tôi.

Nghe nói Hồ công cũng thấy thương
Lệnh truyền cảo táng ở ven sông
Xong xuôi quân tướng giờ vui đến
Mở tiệc trung quân mừng chiến công.
——
*Tiện thổ một doi: Là miếng đất nhỏ.
*Cảo táng: Là chôn cất.


THÚY KIỀU HẦU ĐÀN HỒ TÔN HIẾN
1
Lúc ăn yến tiệc bắt nàng hầu
Lại bắt cung đàn điệu nhật tâu
Ôi! Bốn dây đàn sao thảm thế
Ngón tay nhỏ máu cả năm đầu.

Hồ công tức tối rượu đang say
Bản nhạc ngàn sầu oán lắm thay
Nàng mới thưa rằng bạc mệnh khúc
Phổ vào đàn ấy thuở thơ ngây.
—–
*Điệu nhật tâu: Bản đàn hằng ngày Kiều thường chơi.


2
Lựa những lời xưa khúc nhạc này
Mà gương bạc mệnh vẫn là đây
Tiếng đàn đằm thắm sao hay thế
Mặt sắt nghe mà cũng ngất ngây.

Dây loan ngọt tiếng thật nồng nàn
Như cứ trách mình người chết oan
Ôi! Cánh hoa tàn đâu đẹp nữa
Nỗi lòng nên đã đứt dây đàn.

Hạ công chúc rượu quá say mà
Đến lúc Hồ công cũng nhớ ra
Phương diện quốc gia mình phải giữ
Quan trên trông xuống người trông ta.
——
*Mặt sắt: Ý chỉ mặt của viên quan.
*Hạ công: Là mừng công thắng trận.


KIỀU BỊ GÁN LẤY THỔ QUAN
Ở chỗ công nha buổi sáng ngày
Tính bài Hồ đã đoán ra ngay
Ép tình chẳng chút chi ngần ngại
Gán lấy thổ quan Kiều đắng cay.

Xe tơ lại khéo vơ quàng xiên
Áp thẳng kiệu hoa đưa xuống thuyền
Đèn cảnh treo cao màn rủ thấp
Nàng phai nét mặt vẻ u buồn.

Ôi! Nàng gặp phải chuyện không may
Sao lại gán tình đến tận tay
Cái tấm thân sao mà khổ thế
Giờ thì nàng biết tính sao đây.
——
*Thổ quan: Là viên quan nhỏ ở địa phương đó.


THÚY KIỀU TỰ TỬ
1
Cái tấm thân nàng thật đáng thương
Một mình cay đắng đến trăm đường
Thôi thì nát ngọc tan vàng vậy
Dù có thế nào phải tính xong.

Triều nước nổi lên theo gió giông
Hỏi ra mới biết sông Tiền Đường
Nhớ lời thần mộng khi xưa ấy
Nghĩ đến từ đây kết đoạn trường.

Đạm Tiên nàng nhé chẳng còn xa
Đã hẹn nhau thì đợi rước ta
Sẵn bức tiên hoa nàng viết gấp
Một thiên tuyệt bút để sau mà.
——
*Triều nước: Là thủy triều.
*Một thiên tuyệt bút: Bức thư tuyệt mệnh để lại.


2
Cửa bồng nàng vội mở rèm châu
Sông rộng, trời cao có một màu
Nàng nghĩ Từ công chàng hậu đãi
Chút vì việc nước mà lòng đau.

Đã giết chồng sao nỡ lấy chồng
Sống thì hèn quá, chết cho xong
Thôi còn luyến tiếc điều chi nữa
Tấm thân phó mặc với trời, sông.
——
*Cửa bồng: Là cửa thuyền.
*Rèm châu: Bức rèm cửa có gắn châu ngọc.


3
Trông vời con nước rộng mênh mông
Gieo xuống tràng giang ở giữa dòng
Khi biết thổ quan liền cứu vớt
Nhưng nàng đã đắm dưới dòng sông.

Ôi tiếc thương thay một kiếp người
Sắc tài toàn vẹn quá đi thôi
Nhưng mà oan khổ luôn tìm đến
Có phải là do tại số trời.


GIÁC DUYÊN CỨU VỚT KIỀU
1
Từ lúc Giác Duyên chào giã từ
Đeo bầu, quảy tráp cứ vân du
Gặp sư Tam Hợp đạo cô ấy
Thăm hỏi biết Kiều truyện thế ư.

Sắc sảo Thúy Kiều cũng khôn ngoan
Vô duyên đành chịu kiếp hồng nhan
Còn mang lấy một chữ tình nữa
Nên kiếp long đong đến mấy lần.
——
*Đeo bầu: Quả bầu khô rút hết ruột dùng để đựng nước.
*Quảy níp: Cái tráp đen của nhà sư.

*Vân du: Là dạo chơi như đám mây.


2
Nàng cứ hoang mang chẳng vững lòng
Ma đưa lối quỷ cứ đem đường
Ở không yên ổn, ngồi không vững
Đến bước tìm nơi chốn đoạn trường.

Trong vòng giáo dựng, gươm trần rồi
Hùm sói kề răng tội quá thôi
Sông nước mênh mông nàng thác xuống
Vắng tanh lạnh lẽo giữa dòng trôi.
——
*Giáo dựng, gươm trần: Giáo dựng ngược, gươm tuốt ra khỏi vỏ.Ý nói thời loạn lạc.
*Hùm sói: Ý chỉ Hồ Tôn Hiến và binh lính.


3
Chẳng thể theo tình, oan khốc này
Một mình mình biết, một mình hay
Tấm thân sống đọa, thác đầy ấy
Nên kết từ nay hết kiếp này.

Khi biết Giác Duyên đã rụng rời
Một đời nàng nhé thật thương ôi
Sư rằng: Song chẳng hề chi nữa
Còn lại nghiệp duyên đã định rồi.
——
*Nghiệp duyên: Là thuyết luân hồi của nhà Phật.


4
Có tội tình chi hỡi Thúy Kiều
Mắc duyên tình ái biết bao nhiêu
Lấy tình thâm để đền ân nghĩa
Đã bán thân mình thật đáng yêu.

Hại người lại cứu được muôn người
Nàng đã biết đường cũng biết lời
Thửa công đức ấy ai bằng chứ
Túc khiên cũng đã rửa sạch rồi.
——
*Thửa công đức: Công đức của Thúy Kiều.
*Túc khiên: Tội lỗi kiếp trước.


5
Khi nên trời cũng đã chiều người
Biết chuyện nên sư đã tới nơi
Tâm sáng, Giác Duyên còn nhớ nghĩa
Bè lau đã thả xuống sông rồi.

Cho vẹn trước sau một tấm lòng
Duyên ta gặp lại tỏ tình thương
Vẫn còn cơ hội sư mừng lắm
Rồi dõi nàng theo dòng chảy sông.

Thuê năm ngư phủ, người thì hai
Thuyền đóng, giăng sông lại kết chài
Chẳng quản một lòng sao vớt được
Mong rằng gặp gỡ tính không sai.
——
*Thuê năm: Là thuê cả năm.
*Ngư phủ: Người đánh cá.


6
Thúy Kiều gieo xuống dòng ngân mà
Xuôi nước dần trôi đến chỗ ta
Kéo lưới ngư ông liền vớt được
Ngẫm lời Tam Hợp quả không ngoa.

Trông vẫn thân thương mượt áo là
Bóng gương dầm nước vẫn chưa lòa
Giác Duyên nhận mặt nàng cho rõ
Thiêm thiếp vẫn còn đẹp như hoa.
——
*Dòng ngân: Ý chỉ dòng nước bạc, sông Tiền Đường.
*Bóng gương: Ý nói vẻ mặt của Kiều còn như gương.


KIỀU MƠ GẶP ĐẠM TIÊN
Trong giấc mơ nàng cứ dạ thưa
Đạm Tiên như thoắt gọi người xưa
Rằng: Tôi đã có lòng chờ đợi
Mà lúc này đây tôi vẫn thừa.

Đã thoắt giật mình tỉnh giấc mơ
Bâng khuâng tâm trạng cứ ê chề
Đạm Tiên vừa gặp sao không thấy
Chỉ có Giác Duyên ở cạnh kề.


VUI MỪNG GẶP NHAU CÙNG VỀ THẢO LƯ
Mừng rỡ gặp nhau đủ mọi bề
Thảo lư nơi ấy rước nàng về
Một nhà cùng ở vui khuya sớm
Đây thật mà nàng cứ ngỡ mơ.

Bát ngát mênh mông thật đắm say
Triều dâng, gió lộng cảnh trời mây
Nạn xưa trút sạch như không có
Duyên cũ còn đâu ở chốn này.
——
*Thảo lư: Là nhà tranh.

KIM TRỌNG TRỞ LẠI VƯỜN THÚY
Ngần ấy thời gian mới lại nhà
Nhớ thương chàng vẫn quyết dò la
Ngôi nhà ngày ấy sao mà lạ
Vườn thúy bây giờ đã khác xưa
Tường dưới màng rêu bao phủ khắp
Vườn trong cỏ mọc úa lưa thưa
Phải chăng linh tính nàng tai nạn
Cứ đứng lặng người giọt lệ sa.


KIM TRỌNG HỎI THĂM HÀNG XÓM
Có kẻ kề bên cũng lại nhà
Nên liền thưa chuyện đến cảnh gia
Hỏi thăm ông, bảo bị lừa kiện
Nhắc đến nàng, nói ở chốn xa
Chàng út xem ra thì cũng khổ
Thúy Vân đâu khác, cảnh cùng nhà
Thoắt nghe thân thể như rời rụng
Kiều đã bán mình để chuộc cha.
——
*Chàng út: Chỉ Vương Quan.

KIM TRỌNG TÌM ĐƯỢC NƠI Ở MỚI
Đánh lối đưa đường đến tận nơi
Nhà tranh vách đất ở đây rồi
Lau treo rèm nát, mành thưa thớt
Sân cỏ dầm mưa đất rã rời
Chàng út ngỡ ngàng lòng khó tả
Ông bà cảm động lệ trào rơi
Khóc than kể hết đau thương ấy
Rồi đến Thuý Vân xin nói lời.


THÚY VÂN GIÃI BÀY
Đêm trao duyên kể lại thương Kiều
Kim Trọng lắng nghe cứ dãi dầu
E ngại, ông bà khuyên giải tỏa
Lo âu chàng út chớ u sầu
Ván nay đã đóng sao vào được
Cửa cũng then cài biết đến đâu
Chỉ trách ông trời sao lại thế
Để cho gia cảnh nỗi buồn đau.

KIM TRỌNG ĐI TÌM GẶP THÚC SINH
Thương nàng nên đã có chương trình
Đi đến tìm luôn gặp Thúc Sinh
Thăm hỏi thông tin mong trợ giúp
Dò la manh mối chớ làm thinh
Ông bà viên ngoại thì đau xót
Chàng út, Thúy Vân thật nghĩa tình
Đi tới nhiều nơi tìm chẳng được
Mênh mông trời bể chẳng tin mình.


KIM TRỌNG TÌM ĐẾN SÔNG TIỀN ĐƯỜNG
Cũng chẳng còn đâu mà ngóng trông
Biết tin Kiều thác sông Tiền Đường
Nén hương thắp gọi hồn siêu thoát
Nắm đất gieo cho vợi nỗi lòng
Biết bấy xuân qua nàng tủi cực
Cũng bao thu đến chàng thương mong
Phải theo lời dặn người se mối
Cùng với Thúy Vân nối chỉ hồng.



KIM TRỌNG THÚY VÂN KẾT DUYÊN
Kim Trọng, Thúy Vân đã kết duyên
Trai tài, gái sắc vẫn triền miên
Vu quy hai chữ nào thanh thản
Lỡ bước mấy từ chẳng thể yên
Thôi chị thuở xưa chưa gối lụa
Thì em giờ cũng được buông rèm
Ghi vàng, tạc đá sao mà khó
Cứ hiện tiếng đàn trong bóng đêm.
——
*Vẫn triền miên: Ý nói Kim Trọng, Thúy Vân vẫn ám ảnh Thúy Kiều nên cứ nghĩ triền miên.


TIN VUI
Nhận được tin vui tuyệt quá thôi
Kim,Vương cùng chiếm bảng vàng rồi
Cửa trời rộng mở đường mây bước
Ngõ hạnh đang chờ dạo đến chơi
Vinh hiển không quên niềm nỗi nhớ
Phong quan mà chẳng thể nào nguôi
Oan gia viên ngoại thời xưa ấy
Ắt hẳn thăng đường xử các ngươi.
——
*Cửa trời: Ý nói chỉ cửa nhà vua.
*Đường mây: Chỉ đường lập công danh.
*Ngõ hạnh: Ngõ hạnh viên nơi các tân khoa đến dự yến xem hoa.


ĐOÀN VIÊN
Giác Duyên lên tiếng rất ân tình
Nàng bước theo ra mà khó tin
Kim Trọng bàng hoàng sao chẳng nói
Thúy Kiều bỡ ngỡ cứ lặng thinh
Gieo mình xuống nước đâu còn nữa
Rước đến thảo lư được tái sinh
Gia cảnh họ Vương nay có phúc
Đoàn viên cuộc sống thật thanh bình.


ĐÔI LỜI CỦA TÁC GIẢ
Mười lăm năm ấy, bấy nhiêu niên
Chìm nổi phong trần chẳng được yên
Tái hợp tình xưa, niềm hạnh phúc
Sum vầy người cũ, cảnh đoàn viên
Mê thơ Cụ Nguyễn say sưa đọc
Thích thú Truyện Kiều mải miết xem
Chuyển thể tập thơ làm kỷ niệm
Mong rằng độc giả góp vui thêm.



THƯA CÙNG BẠN ĐỌC

Đối với người Việt Nam, Truyện Kiều không đơn thuần là một tác phẩm văn học, mà đã trở thành văn hóa. Từ xa xưa, Truyện Kiều đã hiện diện trong đời sống dân tộc với các hình thức như ngâm Kiều, lẩy Kiều, đố Kiều, bói Kiều, họa Kiều,…Vì lòng tôn kính, ngưỡng mộ với đại thi hào Nguyễn Du và sự say mê Truyện Kiều mà tác giả Phạm Văn Tốn đã sử dụng những đoạn trích yêu thích trong truyện Kiều để chuyển thể sang thể thơ đường và thơ thất ngôn như một cách để họa lại truyện Kiều. Vì vậy nên khi đọc tác phẩm này, bạn đọc sẽ gặp rất nhiều hỉnh ảnh, câu chữ quen thuộc từ thơ cụ Nguyễn. Rất mong bạn đọc nắm rõ được tinh thần này để cùng tác giả ngẫm lại Kiều, họa lại Kiều và thêm một lần nữa tôn vinh tác phẩm kinh điển này của nền văn học Việt Nam.
Trân trọng!


PHẠM VĂN TỐN